Những Điều Chưa Biết Về Bệnh Cháy Lá Lúa

0
1618
Nhấn vào đây để khởi tạo audio

Bệnh cháy lá lúa còn được gọi là bệnh bạc lá, là một trong các bệnh quan trọng trên lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long. Bệnh có ảnh hưởng nhiều đến năng suất, kinh tế đồng thời rất khó trị bệnh này. Nếu bạn còn nhiều điều muốn tìm hiểu về loại bệnh này, đừng vội bỏ qua bài viết dưới đây của chúng tôi nhé!

  1. Nội dung chính

    Tác nhân gây bệnh

Bệnh do vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv. oryzae gây ra. Vi khuẩn có một roi nên lội rất tốt trong nước, có thể sống từ 100C – 400C, nhiệt độ thích hợp nhất là 260C – 300C.

  1. Triệu chứng bệnh

Triệu chứng điển hình là vết cháy dọc theo hai bên bìa của lá lúa, rồi lan dần vào gân chính của lá (Hình 1). Vết bệnh có thể bắt đầu từ rìa lá lan dần vào bên trong do vi khuẩn xâm nhập vào lá lúa qua các thủy khẩu dọc theo rìa lá. Tuy nhiên, vi khuẩn gây bệnh cũng có thể xâm nhập từ một vết thương ở bất kỳ nơi nào trên lá và gây vết bệnh lan dần theo chiều dọc, tạo ra vết bệnh giữa phiến lá.

Ban đầu vết bệnh có màu vàng nhạt hoặc màu đỏ nhạt, về sau vết bệnh chuyển sang màu xám trắng. Bệnh phát triển chậm trước khi lúa trổ. Nhưng phát triển rất nhanh sau khi lúa trổ đến gần thu hoạch. Bệnh nặng làm toàn bộ lá đều cháy trước thu hoạch. Trong điều kiện ẩm ướt (mưa đêm hoặc sương mù dày) vết bệnh có dạng thấm nước và có màu xanh lợt.

Triệu chứng của bệnh cháy lá lúa khá dễ để nhận diện
Triệu chứng của bệnh cháy lá lúa khá dễ để nhận diện 

Ngoài ra, bên dưới mặt lá lúa tại nơi vết bệnh có thể phát hiện các giọt dịch vi khuẩn hình tròn nhỏ, màu vàng nhạt. Giọt dịch vi khuẩn dễ phát hiện vào sáng sớm lúc trời còn ẩm ướt.

Ở những ruộng mắc bệnh nặng lúc lúa vào chắc, vi khuẩn gây bệnh còn tấn công lên hạt lúa gây các đốm biến màu có viền dạng thấm nước lúc hạt lúa còn non. Giai đoạn gần thu hoạch, hạt lúa có các đốm ngả màu xám hoặc vàng trắng; diện tích quang hợp giảm nên làm  giảm năng suất.

  1. Sự lưu tồn, lây lan và xâm nhiễm của bệnh

  • Sự lưu tồn của bệnh

Sau vụ lúa, vi khuẩn lưu tồn trong rơm rạ còn trên ruộng, trong lúa chét, trong các loại cỏ là ký chủ phụ (như cỏ lông công, cỏ lác rận, thủy trúc,..) và có thể lưu tồn trên hạt lúa vừa thu hoạch. Trên hạt lúa được tồn trữ ở 250C – 300C, vi khuẩn gây bệnh sống được đến 2 tháng. Tuy nhiên, nếu hạt được phơi nắng khô thì vi khuẩn sống không quá 40 ngày. Vi khuẩn có thể sống trong đất từ  1 – 3 tháng. Trong nước kinh rạch, nước ruộng, có thể sống được vài tuần đến hai tháng.

  • Sự lây lan và xâm nhiễm bệnh

Vi khuẩn cháy bìa lá lây lan theo nước. Vi khuẩn trong nước ruộng hoặc từ lá lúa lân cận, sau khi bám sẽ lội trên mặt lá lúa để tìm đến các thủy khẩu ở dọc theo rìa lá và xâm nhập vào. Ngoài ra, các vết thương trên lá lúa cũng là cửa ngõ cho vi khuẩn xâm nhập, các vết thương cũ sau 24 giờ gần như không còn bị vi khuẩn xâm nhiễm gây bệnh. Mặt khác, vi khuẩn gây bệnh tập trung ở khí khẩu của lá lúa, nhưng do không tiến vào mạch nhựa của lá được nên không tạo ra bệnh.

Loại vi khuẩn gây bệnh cháy bìa lá thường sẽ lây lan trong nước
Loại vi khuẩn gây bệnh cháy bìa lá thường sẽ lây lan trong nước
  1. Các yếu tổ ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh

  • Vi khuẩn thích trời nóng hoặc ấm và ẩm ướt, nên bệnh phát triển mạnh trong vụ hè thu và thu đông.
  • Trời mưa sẽ giúp vi khuẩn lây lan ra xung quanh. Lúc trời có giông bão, gió mạnh sẽ làm lá lúa bị rách, gãy và đây là cửa ngõ quan trọng để vi khuẩn xâm nhập vào.
  • Bệnh cháy bìa lá thường xuất hiện vào cuối giai đoạn đẻ nhánh của ruộng lúa. Bệnh lây lan khi có điều kiện thuận lợi như mưa to, hoặc lúc có người lội vào ruộng lúc lá còn ướt nước. Bệnh phát triển rất nhanh từ giai đoạn lúa trổ cho đến chín.
  • Bệnh phát triển nhanh và nặng ở những ruộng được bón phân Đạm cao.
  • Ruộng sạ dầy sẽ tạo điều kiện cho bệnh xuất hiện sớm.
  1. Phòng, trị bệnh

       5.1 Phòng bệnh

  • Sạ thưa, với mật độ khoảng 120 kg/ha.
  • Sử dụng giống khỏe, ngâm ủ tốt.
  • Làm đất kỹ, mặt ruộng bằng phẳng, không chỗ trũng, đọng nước và đọng phân Đạm – là nơi bệnh phát triển nặng. Làm đất sớm để tránh không bị ngộ độc axit hữu cơ.
  • Không bón Đạm cao: vì khi có mưa, lúa non sẽ hấp thu quá nhiều N là điều kiện để bệnh bộc phát, phát triển nhanh và gây hại nặng.
Để phòng bệnh cháy bìa lá, không nên bón cho lúa lượng Đạm quá cao
Để phòng bệnh cháy bìa lá, không nên bón cho lúa lượng Đạm quá cao

       5.2 Trị bệnh

       – Bệnh cháy bìa lá rất khó trị vì vi khuẩn nằm trong mạch nhựa của lá lúa. Cần phải trị thật sớm khi phát hiện ra một vài lá vừa mắc bệnh.

      – Có thể sử dụng các loại thuốc để trị cháy bìa lá có các hoạt chất như: oxolinic acid, bronopol, bismerthiazol, quaternaly ammonium salt, các loại thuốc gốc đồng, các loại thuốc kháng sinh gentamycine + oxytetracyline, hoặc các loại thuốc sinh học như xạ khuẩn Streptomyces lydicus.

       – Có thể sử dụng vôi để trị bệnh cháy bìa lá. Dùng vôi cục, loại vôi sống (lúc nhỏ vào nước sẽ sùi bọt và bốc khói), với liều lượng 0,5 kg cho bình phun 16 lít. Có thể pha vôi dưới dạng cốt, mang ra ruộng hòa thêm nước cho đủ liều lượng để phun. Sử dụng vôi có lợi là sau khi phun, vôi bám chặt trên bề mặt lá lúa nên lâu bị nước mưa rửa trôi. Khoảng cách 2 lần phun vôi là 10 ngày.

Chúng tôi mong rằng qua nội dung bài viết này, bà con sẽ hiểu hơn về bệnh cháy lá lúa. Bà con đừng quên theo dõi chúng tôi để cập nhật thêm nhiều thông tin khác về nông nghiệp nhé!

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây